Tuesday, November 19, 2013

Sám Hối Phía Bên Kia Đồi


Lái xe ra khỏi cổng nhà tù, hình ảnh những giọt nước mắt sám hối của anh chị em tù nhân làm thức tỉnh lương tâm.  Tôi bắt đầu những ngày mục vụ ở trại tù sau ngày chịu chức.  Lòng hăng say trong những tháng ngày đầu của đời linh mục thôi thúc lên đường.  Đoạn kinh thánh của Isaiah mà Chúa Giêsu cảm nhận “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ( Luca, 4:18-19) như nói với riêng mình hôm nay để hăng say lên đường.  Trong niềm hăng say, dường như có xen lẫn cả men kiêu hãnh. Tôi đến với anh chị em tù nhân với tâm tình yêu thương pha trộn thái độ của người ban ơn.  

Nhà tù nằm ở một góc xa vắng, cuối bên kia chân đồi.  Cây cỏ xơ xác, ngoại trừ những cách xương rồng trơ trụi.  Dưới chân đồi là dãy kẽm gai lạnh buốt, sắc bén hơn cả gai xương rồng, gợi cho con người cái cảm giác của niềm đau, phân cách, và lạnh lùng.  Đã nhiều năm,  tôi do dự không muốn đến nơi đó. Tôi thích ở gần bàn thờ có hoa, có nến, có bước chân người quen rộn rã chào đón.  Rồi một chiều trời thu, tôi rời bàn thờ hoa nến và rộn rã phố phường để đi về nơi phía chân đồi ảm đạm ấy.

Thế giới của nhà tù thì nhiều người biết đến: khắc nghiệt, hung bạo, thiếu tình người, có lúc mất cả niềm hy vọng. Còn thế giới tâm hồn của những tù nhân, thì ít ai biết đến và ít ai hiểu được. Nó là khoảng riêng tư khép kín, có lỗi lầm, có nỗi buồn, có mặc cảm, và có cả nhiều giọt nước mắt sám hối.
Chính cái riêng tư sâu kín và khó hiểu ấy thường để lại trong dòng đời những ấn tượng tiêu cực. Tôi đến với họ qua lăng kính của một chút thành kiến. Để giúp họ hoán cải, tôi say mê nói chuyện với anh chị em về Thiên Chúa, về cuộc đời, về sám hối, và về niềm hy vọng.  Họ âm thầm nhẫn nại lắng nghe, lắng nghe chân thành lắm! 

Rồi trong một khoảnh khắc bất chợt, tôi thấy những bàn tay say mê đếm nốt cuộc đời trên những chuỗi tràng hạt đã sờn mòn.  Có những đôi tay ôm gọn cuốn Kinh Thánh trong lòng với những trang sách đã vàng úa của thời gian.  Hoá ra, có người đã đến với Đức Maria từ những ngày bước chân vào cổng trại giam.  Có người đã gặp Đức Kitô qua những trang Kinh Thánh đã phai màu giấy lụa.  Chúa Kitô đã đồng hành với họ vào những nơi xa xôi nhất của cuộc đời.  Sau tấm màn sắt lạnh lùng của dãy nhà tù, tôi gặp gỡ những mùa sám hối trọn vẹn quá.  Thời gian và ơn thánh đã giúp thanh tẩy bụi trần.  Lòng sám hối và đạo đức của một số anh chị em trong tù thách đố thái độ sống đạo của tôi.  Ai là người công chính trước mặt Thiên Chúa đây?  Người đi tu, hay kẻ ở trong tù?  Tôi bắt đầu băn khoăn, nhớ lại lời Kinh Thánh,“ Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hoán cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.”  Tôi ở trong đám người nào đây?

Hàng ngày tôi đến nhà thờ và đọc kinh cáo mình mỗi sáng, nhưng trong lòng chưa có những giọt nước mắt ăn năn.  Cạm bẫy cõi lòng có khi dùng việc đạo đức bên ngoài để che đậy lương tâm.  Nó cho mình một cảm giác an tâm của người biệt phái: lễ lạc, kinh nguyện, làm việc mục vụ là thay cho của lễ hiến tế!  Hôm nay nghe Thánh Kinh chất vấn,“ Máu chiên bò Chúa không ưng, lễ toàn thiêu Chúa không nhận.  Chúa chỉ nhận tấm lòng tan nát khiêm cung.”  Tôi do dự.  Thật khó có tấm lòng tan nát khiêm cung, nhất là khi mình đang ở vị trí được nhân danh Chúa để ban ơn tha thứ.  Có khi những địa vị ấy dễ ngăn cản tìm về sám hối.  Luật lệ tôn giáo và quy ước đạo đức xã hội lắm lúc cũng tạo nên thành kiến về con người hơn là nuôi dưỡng lòng bao dung. 

Trước khi vào giúp trại tù, ấn tượng về những tội phạm là những con người  không có ích cho xã hội.  Sau một thời gian đến với họ, tôi thấy chính mình mới là người cần thay đổi, vì bên kia chân đồi của cuộc sống, có quá nhiều điều để học hỏi.  Mình cần thay đổi thái độ về một con người trong hoàn cảnh hiện tại hơn là nhìn vào quá khứ của họ.  Có một lần, ánh mắt xa xăm và lời chia sẻ của người phụ nữ trạc tuổi bốn mươi làm lòng tôi xe lại.  Chị nhìn những bông hoa dại bên hiên nhà tù rồi nói: “Cha biết không, nhìn những bông hoa dại làm tôi nhớ đến những cánh hoa trong vườn ngày xưa.  Những lúc tưới hoa, hai đứa bé quấn quýt chân mẹ như những mèo con thơ dại.  Đùa giỡn, ôm ấp, rồi bỗng một ngày mẹ con chia li.  Vậy mà đã năm năm xa tụi nhỏ.  Gia đình tôi ở Hawaii.  Xa quá.  Mong sao có ngày về gặp lại con.  Tôi muốn dành cả cuộc đời còn lại để chăm sóc con mình.” 

Lòng sám hối và yêu thương tràn ngập tâm hồn chị.  Trong những lầm lỗi, ơn thánh đã mở lối đưa về yêu thương.  Tôi không hỏi tại sao chị vào tù?  Đó không phải là câu hỏi của hiện tại.  Nhưng cảm nhận sự biến đổi của ơn thánh trong phút giây hiện tại nơi một tấm lòng rạn vỡ mới là giây phút thiêng liêng, nó mở lối cho màu nắng hy vọng trong buổi chiều ảm đạm.  Lạ quá, trong cái mịt mù ảm đạm ấy, Chúa đã đến bên họ để khơi dậy lòng tin yêu, để họ biết khóc, biết sám hối và biết hy vọng.  Những bức tường kín không ngăn cản được ơn thánh.  Ơn Thánh vào thăm tù không cần giấy tờ hay thẻ căn cước để qua cổng an ninh.  Cũng không cần chìa khoá của người cai tù để mở cửa phòng giam, nhưng có sức mạnh mở toang cánh cửa tâm hồn ngay cả khi họ đang bị nhốt kín sau khung cửa.  Ơn thánh rửa sạch lương tâm và giúp họ làm lại cuộc đời.  Tôi nói với chính mình, còn mùa sám hối nào đẹp hơn những mùa sám hối tôi gặp bên kia lưng đồi ấy.  Họ giúp tôi hy vọng về một tình thương quá vô biên và tin tưởng vào sức mạnh của Ơn Trời.

Trên đường trở về, tôi dâng lời cầu nguyện cho họ và cho tôi. Tôi cầu cho anh chị em tù nhân tiếp tục sống hy vọng trong những hoàn cảnh thiếu tự do. Tôi cầu nguyện cho tôi đang sống trong hoàn cảnh có nhiều tự do cần phải biết quý trọng sự tự do để lớn lên trong Chúa. Tự do là quà tặng, nhưng cũng là cảm bẩy đưa đến nhiều lỗi lầm. Sống trong tự do mà quên lòng sám hối thì tự do ấy sẽ dần dần đưa con người xa Chúa. Càng xa Chúa, thì cuộc sống đang đánh mất sự tự do đích thực.

Lạy Chúa, Chúa cho con quá nhiều tự do, nhưng con sợ có khi mình đang dùng tự do để dần dần đánh mất tự do. Nếu dùng tự do Chúa ban như thời giờ, vật chất, sức khỏe và nhiều phương tiện khác để làm mất đi sự tự do nội tâm, thì con đang tự xây phòng giam cho tâm hồn mình.  Nhà tù cho các phạm nhân hành sự thì dễ xem thấy, vì có nhiều kẽm gai, song sắt, và tường cao,  nhưng nhà tù của tâm hồn thì con khó phân biệt, vì có khi nó được trang trí bởi nhiều ảo ảnh. Con cần ơn thánh giúp lòng sám hối để nhận ra đâu là gai, là sắt, là tường cao đang từ từ ngăn cách hồn con.



Monday, November 4, 2013

Giông Bão Cuộc Đời



Đứa cháu họ của tôi qua đời chỉ ba tuần truớc ngày đám cưới. Hai mươi bốn tuổi, trai tráng, khôi ngô, đời  tràn ngập sức sống. Bỗng một chiều, cháu mệt. Vào bệnh viện, rồi ra đi. Để người con gái sắp cưới ở lại, ôm nỗi đau khó diễn tả. Mong một ngày làm vợ và làm dâu chưa thành. Cô khóc không còn nước mắt. Có ngàn giọt nước mắt người thân đến chia sẻ, nhưng không thể giúp vơi niềm đau. Cô dựa vào lòng chị tôi, người mẹ chồng tương lai, để tìm sức mạnh. Nhưng chị tôi cũng yếu đuối như người con gái ấy. Cả hai ôm nhau đứng trước cơn giông bão cuộc đời quá lớn, có sức phá vở tất cả nghị lực và cuốn trôi tất cả niềm tin. “Chúa ở đâu trong cơn giông bão ấy?”

Những người đạo đức trong xứ đến an ủi chị, “Có lẽ là thánh ý Chúa, anh chị cố gắng chấp nhận.” Chị tôi ngậm ngùi, không dám phản ứng trước lời an ủi. Trong đáy sâu tâm hồn, chị thầm hỏi “ Tại sao lại là Thánh Ý Chúa ?” Rồi chị thinh lặng trong nỗi đau.  Ngày tháng qua đi, chị vẫn chưa hiểu nổi tại sao bão tố đến với gia đình chị. Đau khổ vẫn mãi mãi là một nhiệm mầu sâu thăm thẳm chưa có câu trả lời thỏa đáng. Bước đi trong niềm tin xen lẫn nước mắt vẫn là hành trình của người Kitô Hữu.

Đôi khi, người ta tìm được chút ánh sáng trong những trang sách xưa cũ. Kinh thánh kể về một gia đình đơn côi trong một làng nghèo ở Bethania.  Làng này nghèo hơn tất cả các làng nghèo chung quanh vùng phụ cận Giêrusalem. Một trong những lý do Chúa Giêsu hay lui tới làng này, là vì họ nghèo. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho dân nghèo. Làm bạn, kết thân, rồi gắn bó với họ.

Có một gia đình đơn côi, không cha không mẹ. Gia đình của ba chị em Matha, Maria và Lazarô. Rồi một ngày, Lazarô lâm bịnh rồi ra đi khi Chúa Giêsu chưa kịp đến. Hai người chị Matha và Maria, tuổi còn xuân xanh, đối diện với sóng gió cuộc đời. Người em trai duy nhất ngã xuống, mảnh nương tựa của cảnh đời đơn côi rạn vỡ. Hụt hẫng, hoang mang, giông bão cuộc đòi kéo đến. Thách đố số phận; thách đố niềm tin.  Những ngày đưa tang về thấy căn nhà trống vắng, thiếu tiếng nói cười của người yêu thương. Lời nguyện trong đêm từ nay xen lẫn nhiểu nước mắt.

Phúc âm ghi rõ,  người mà Thầy thương mến đang ốm nặng. Biết người mình yêu mến đang lâm nguy tại sao Chúa không đến ngay? Tôi cứ mãi băn khoăn, sao người thầy thương mến lại phải đối diện với những nỗi đau mênh mông đến thế. Sao người thầy thương mến phải nằm trong mồ? Những lần khác Chúa đến đúng giờ, nhưng khi người thân yêu đau khổ, Chúa lại đến trễ. Tại sao Chúa lại để người theo Chúa phải nằm trong nhiều nấm mồ của cuộc đời? Mồ bệnh tật, mồ thất bại, mồ bị phản bội, mồ cô đơn, và nhiều nấm mồ khác.

Tôi không có câu trả lời thỏa đáng, chỉ mong tìm một chút ánh sáng từ câu chuyện Tin mừng: đó là Thiên Chúa không làm ngơ trước đau khổ.  Phải tin tưởng điều này mới mong có ngày bước ra khỏi những nấm mồ cuộc đời. Nếu không, bệnh viện tâm thần sẽ không còn chỗ chứa. Ngài hiện diện qua sự nâng đỡ của tình người và nhất là qua ân sủng. Thánh Phaolô cũng cảm nhận, “ Ơn ta đủ cho con.

Đứng Bên Thập Giá

Ngành tâm lý ngày nay giúp hiểu rằng, đau khổ được biến đổi nhờ sự nâng đỡ của người khác. Có nghĩa là, không phải đau khổ nào cũng đưa con người đi đến một kết quả xấu. Nếu đau khổ được nâng đỡ bởi tình yêu và nhờ ân sủng, một cuộc biến đổi sẽ diễn ra. Do đó, đau khổ lớn nhất không phải là chính biến cố đau khổ, nhưng phải đi qua đau khổ trong cô đơn mới là kinh nghiệm đớn đau nhất. Hai ngàn năm trước, phúc âm đã dọi vào cuộc đời ánh sáng này, khi trình bày cảnh thập giá có bóng dáng của người thân yêu. “Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.” (Ga 19, 25) Sự hiện diện yêu thương này đã giúp Đức Giêsu đi trọn con đường đau khổ ở một giây phút hệ trọng nhất của sứ mạng.

Vậy đau khổ có khi không còn là vì do Chúa trừng phạt như người ta hay nghĩ,  nhưng có khi lại là lời mời gọi để đi đến tận cùng của thân phận làm người. Lắm khi trong đau khổ, người ta lại cảm nghiệm được giá trị thật của cuộc sống. Như Gandi có lần diễn tả, một con người muốn đạt đến chiều cao của tâm linh, người ấy có khi phải đụng chạm đến cái vực sâu khốn khổ của thân phận làm người. Chúa để người thân của mình đối diện đau khổ, học những bài học từ đau khổ, và để can đảm sống niềm tin giữa những dằng co trong đó xen lẫn cả đắng cay và ngọt ngào. Cuộc đời này chưa phải là vĩnh cửu của Thiên Đàng.

Có khi Thiên Chúa để tôi bước vào mầu nhiệp đau khổ để cảm nghiệm sự bất hạnh của một nhân loại đang thật quá đau khổ. Nếu như thế, giông bão của cuộc đời có khi là một sứ mạng để bắt đầu biết yêu thương. Tôi sợ sứ mạng này, đó là những “chén đắng” cho đời tôi, nhưng có khi lại là niềm nâng đỡ cho anh chị em mình đang đau khổ.

Chén đắng này Chúa uống cạn, để giúp tôi hiểu về đau khổ. Hôm nay, Chúa mời gọi tôi nếm  từ từ. Tôi hiểu như thế, nhưng chưa bao giờ nói với chị mình tại sao chị phải uống chén đắng của đời mình. Hy vọng một ngày nào đó khi nắng bình minh của tâm hồn rọi chiếu, chị sẽ khám phá cho chính mình ý nghĩa của từng nỗi đau của một người mẹ mất đi đứa con yêu thương, nhưng trong sâu thẳm vẫn tin rằng Chúa vẫn không bỏ rơi mình.

NTN

Từ Bàn Tay Trắng


Ngày Phê rô đi đi là ngày ông đang gp tht bi. Chúa can thip vào đi ông, ông có chút thành công. Ri Chúa li bo ông b li thành công đó cho đi, đ nghe theo li gi mi. Phêrô phân vân, “đâu là thành công tht ?”
 Cuc đi Phêrô  xoay quanh con thuyn, sóng nước. Nước có lúc bình yên, bin có ngày sóng gió.  Đi ông cũng ni trôi như sóng nước. Có ngày cá vào đy lưới, ông vui. Ngày cá đi vng, ông bun. Ông không nm chc liu cá có bơi qua thuyn mi ngày như mi ngày? Sng trong cái bp bênh ca may ri là thân phn con người. Ông có th tính toán gii, nhưng ông không đc được hết tâm tư ca sóng nước. Ông cũng chng hiu nhng chuyến đi thm lng ca loài cá. Ông sng ch thi.
Ri mt ngày, ông lên b vi bàn tay trng. Ông bun vì tht bi. Nhưng bun hơn là  thy đng nghip ca mình đang thành công, mà mình thì tht bi. Phúc Âm k, nhng người chài lưới khác đang đi ra lưới. Có cá vào nhiu nên mi đi ra lưới. Còn lưới Phêrô sch, không cn ra ! Ông ngi nhìn con thuyn trng rng, nghĩ đến ngày mai bp bênh.  Ông ngi ngm nghĩ, giá mà ti hôm qua ông th lưới ở một vùng nước khác, có lẽ sẽ không đến nỗi tệ như hôm nay. Giá như ông theo đám đông để thả lưới, thì có lẽ cũng kiếm được mớ cá như bao nhiêu người khác. Bao nhiêu tâm trạng “ giá mà ” vẫn thường quanh quẩn trong tư tưởng mỗi khi thất bại.
Nếu nhìn chung quanh ai cũng đu tht bi, thì có l Phê rô không bun nhiu. Còn tt c thành công, mà mình tht bi thì bun lm. Mc cm cá nhân thường ngăn cn nhng n cười tươi. Chung quanh ông, có nhiu ánh mt vui ca thành công. Còn trong ánh mt Phêrô có ánh nhìn xa xăm.
Tôi gp trong dòng đi nhiu ánh mt như Phêrô, và tôi yêu mến h.  Nhng ánh mt bun vì tht bi trong tình yêu, trong hôn nhân, và trong ngh nghip. Ngay c trong Giáo Hi, nhng người tht bi ít có tiếng nói, h đng bên l ca đi sng phc v. Thinh lng, kiên nhn, và đi ch. Li đi nào cũng có nhng khúc quanh ca nó.  Lm khi nhng khúc quanh cuc đi khiến người ta ngi tìm mt li đi mi.
Câu chuyn vui ca mt Cha x k làm tôi nh mãi. Mt bui sáng Chúa Nht, bà m đến gi con trai.
-Steven, dậy đi lễ.
Steven nghe tiếng gọi, nhưng anh phản ứng.
             -Không, con không muốn đi. Đi lễ một mình buồn. Hơn nữa, chẳng mấy ai ở nhà thờ ưa con.” Rồi anh kéo mền phủ kín đầu. Người mẹ kiên nhẫn nhưng dứt khoát.
-Có ba lí do con phải đi lễ hôm nay. Thứ nhất, hôm nay là Chúa Nhật, lễ buộc. Thứ hai, con đã ngoài bốn mươi tuổi rồi. Và thứ ba, vì con la Cha Xứ. Dậy nhanh lên con, sắp trể rồi !
 Tht bi làm con người tê lit, không mun vươn xa hơn. Phêrô cũng ngi ngn như thế.  Ông nhìn con nước trong veo nhưng lòng đy nghi nan, tương lai m đm. Bt lc. Ông ngi ch thi.  Ri ánh bình minh lên cao, có bước chân người tìm đến. Chúa nhìn thuyn Phêrô trng tri, còn ánh mt ông thì vn xa xăm. Có tiếng nói bên tai, “ Cho tôi mượn chiếc thuyn. ” Li đ ngh thân tình làm ông ngc nhiên. Lâu nay có ai mượn thuyn ca ông bao gi.  Phúc Âm k:
Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghennêxarét. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.  Ðức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Giảng xong, Người bảo ông Simôn: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá".  Ông Simôn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".  Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.  Họ Làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!"  Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.  Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Ðức Giêsu bảo ông Simôn: "Ðừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Mượn thuyn là đ đưa thuyn ra khơi.  Chúa mượn thuyn Phê rô, Chúa mượn thuyn đi tôi. Nhng con thuyn cũng có ln ngi ngùng xung nước. Ri mt li đ ngh th lưới trái quy lut, khó chp nhn, bi vì không ai có hy vng lưới cá ban ngày, nht là khi nng đã lên. Cá ch xut hin nhiu trong đêm. Nắng càng lên cao, cá càng lặn sâu. Thả lưới ban đêm mà vẫn trắng tay, nay lại còn có lời yêu cầu thả lưới ban ngày! Sóng nghi nan trổi dậy trong lòng. Phép lạ cuộc đời hiếm xảy ra trong cuộc đời chài lưới nhiều kinh nghiệm. Càng thấy mình có kinh nghiệm, càng khó tin lời người khác chỉ bảo.
Rồi từ bàn tay trắng xen lẫn nghi nan, có phép lạ xảy đến. Phép lạ thứ nhất là lòng Phêrô thay đổi. Chưa bắt được cá, nhưng lòng biết lắng nghe là đã mở lối cho nhiệm mầu. Ông để Chúa vào thuyền đời mình. Con thuyền lâu nay ông tự lèo lái, chẳng cần ai. Nay ông  thất bại, ông bắt đầu hoài nghi cả chính mình. Cái hay của Phêrô là nhẹ nhàng chấp nhận, “ Thôi Chúa cứ dùng, chứ con nản chí lắm rồi.” Sẵn lòng để Chúa dùng con thuyền đời mình, là bắt đầu đón nhận nhiều sự lạ. Chuyện lạ của mẻ cá được bắt đầu từ một thái độ mở lòng, dù nó xen lẫn chút nghi nan.
Cái đẹp của niềm tin là nó được đan quyện trong những giây phút hoài nghi. Tin mà không có chút hoài nghi có thể là một niềm tin tinh tuyền, nhưng cũng có khi nó  lại là một niềm tin non trẻ, chưa trải nghiệm sóng gió. Tin mà xen lẫn cả nghi nan, mới thấy rõ Ơn Trời nhiệm mầu.  Chúa biết Phêrô hoài nghi, nhưng vẫn can thiệp để biến hoài nghi trở thành niềm tin tưởng. Vì thế, cảm thông cho những giây phút chán nản trong đời của một ai đó là bắt đầu dìu nhau bước vào ánh sáng của niềm tin.
 Thay Đổi Giá Trị Sống
Phêrô choáng ngợp trước thành công vật chất quá lớn. Chúa của ông lúc này vẫn là Chúa của ban ơn, Chúa của vật chất, và Chúa của nguồn thành công. Ông vui vì được làm bạn với Chúa, người cho ông quyền lợi, cho ông lợi nhuận. Ông vui vì từ nay ông không còn sợ kinh nghiệm trắng tay. Rồi ông sẽ lên bờ rao giảng cho đồng nghiệp, “Hãy theo Chúa đi, rồi sẽ trúng lớn!” Thế nhưng giá trị cuộc sống của Phêrô cho đến lúc này vẫn chỉ là cá.
Chúa cho Phêrô cá, nhiều lắm, nhưng lại yêu cầu ông từ bỏ nó.  Phêrô ngỡ ngàng, “ sao Chúa cho con, rồi lại bảo con tư bỏ?” Đây là bài học sâu thăm thẳm trong hành trình gọi mời. “ Sao Chúa cho con thành công rồi Chúa bảo con bỏ nó đi?” Rồi sâu trong ký ức, Phêrô lại nghe tiếng nói lúc Chúa mượn thuyền. Lần lắng nghe trước đã làm nên điều kỳ diệu, nên ông muốn tiếp tục lắng nghe.  Chúa mách bảo với ông, “cá nhiều thí vẫn là cá. Cá không làm cho anh trở thành người. Bám mãi với cá, đời anh sẽ thoang thoảng với mùi tanh của cá. Nếu anh muốn làm người, hãy đi theo Đấng đã nhập thể làm người.”  
Theo Đấng đã nhập thể làm người là bắt đầu thay đổi giá trị sống: là để Chúa đi vào con thuyền đời mình hơn là tự lèo lái, là khám phá thành công vật chất, địa vị, nghề nghiệp, công danh, quyền lực, ngay cả địa vị trong tôn giáo, chỉ là phương tiện để hướng đến giá trị vĩnh cửu hơn là bám víu vào đó như là cứu cánh, rồi để bước chân lên bờ tìm đến những mảnh đời bị lãng quên. Có khi những mãnh đời bị lãng quên đó có mặt ngay trong  chính gia đình, trong giáo hội, hay lang bạt giữa chợ đời mênh mông.
Trong một thoáng giây choáng ngợp, Phêrô chợt hiểu, thành công thật không phải là kết quả, nhưng là hành trình đáp trả lời mời gọi để đi tìm kiếm con người. Ông bỏ lại phía sau những gì đã đón nhận: con thuyền, mẻ cá, chiếc lưới, chút thành công vội vàng, và cả biển khơi cả cuộc đời gắn bó….để theo Đấng đã làm người và mong sao cho mỗi người được trở thành người hơn.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng, thất bại lớn nhất không phải là những lần thua cuộc trong chợ đời, nhưng là những lần không đáp trả lời mời gọi từ trên cao, và nhất là không sống đúng với cái hình ảnh mà Thiên Chúa muốn con trở thành.  Hôm nay, khi ánh bình minh lên cao, con cũng thấy bước chân của Ngài đi ngang qua con thuyền đời con, con thuyền cũng nhiều lần thất bại trắng tay. Xin cho con hiểu, mỗi một lần thất bại, là mỗi lần con cần tập khám phá ý nghĩa của thất bại trong ánh sáng của Phúc Âm. Mỗi một lần thành công, cũng xin cho con hiểu rằng, thành công là quà tặng. Giữ mãi quà tặng cho riêng mình mà không sinh lợi cho nước Chúa, thì thành công ấy chỉ giống như mẻ cá của Phêrô, có rồi mất theo dòng sông cuộc đời.